Nước Đức là nước bắt đầu nền công nghiệp hóa rất muộn, khi mà các cuộc cách mạng công nghiệp của Anh và Pháp thành công, nước Đức lúc bấy giờ mới đang là nước nông nghiệp. Người dân Đức sau thời kì công nghiệp hóa cũng chỉ học theo các công nghệ của Anh, Pháp và làm đồ giả. Vì lí do đó, Quốc hội Anh chú trọng đặc biệt cải cách “luật thương hiệu” vào ngày 23/8/1887, yêu cầu tất cả những gì nhập khẩu từ Đức phải có mác “Made in Germany”. “Made in Germany” vào thời điểm bấy giờ là một nhãn mác bị mọi người khinh thường.
Các nghiên cứu khoa học của các trường đại học tại Đức trong thời kì đầu của thời đại công nghiệp hóa hoàn toàn không liên kết với các lĩnh vực sản xuất. Mặc dù nước lúc đó là Trung tâm khoa học của thế giới, nhưng người Mỹ lại thông minh hơn, những người Mỹ sau khi tốt nghiệp và lấy được bằng xong, họ đã không vùi đầu vào những nghiên cứu khoa học nữa, thay vào đó họ lăn mình vào đi làm với các doanh nghiệp luôn.
Đầu thập kỉ 90 của thế kỉ 19, các nhà khoa học người Đức sau khi sang Mỹ để mở mang tầm mắt, đã phát hiện các sản phảm công nghiệp của Mỹ có công nghệ rất cao, lúc này người Đức mới đưa ra phương châm mới của mình đó là lý thuyết phải đi đôi vs thực hành, bắt đầu thúc đẩy sự phát triển về khoa học ứng dụng. Do nước Đức có một nền tảng rất vững chắc về Khoa học, nên họ đã tiếp thu rất nhanh phương châm lý thuyết phải đi đôi với thực hành. Đội ngũ các nhà khoa học người Đức đã đứng đầu trong thời gian nửa thế kỉ, những đội ngũ công nhân và kĩ sư làm việc rất ăn ý, họ đã lãnh đạo thành công “Cách mạng động cơ đốt trong và điện cơ hóa”, việc này đã khiến nền kinh tế công nghiệp Đức không ngừng phát triển.
Kể từ đó trở đi, các sản phẩm của Đức như cơ khí, hóa chất, điện, quang học, kể cả đồ dùng gia đình, dụng cụ thể thao đã được mệnh danh là những sản phẩm có chất lượng tốt nhất trên thế giới, “Made in Germany” lúc đó trở thành biểu tượng cho uy tín và chất lượng. Những công ty có tiếng nhất ở Đức đều được thành lập từ thời điểm này và vẫn giữ uy tín cho đến tận ngày hôm nay.